8 November 2008

Nguyên tắc Cúng, Khấn, Vái và Lạy tổ tiên

Nguyên tắc Cúng, Khấn, Vái và Lạy tổ tiên


Thờ cúng là cách biểu thị lòng nhớ ơn tổ tiên cũng như lòng thương và
hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ. Đây là một truyền thống văn hóa tốt
đẹp của người Việt mà chúng ta cần phải duy trì.


* Nghi thức cúng gia tiên

Khi cúng thì chủ gia đình phải bày đồ lễ cùng với hoa quả theo nguyên
tắc "đông bình tây quả", rượu và nước. Sau đó, phải đốt đèn (đèn dầu,
đèn cầy, hay đèn điện), thắp nhang, đánh chuông, khấn, và cúng trước
rồi những người trong gia đình theo thứ tự trên dưới cúng sau. Nhang
(hương) đèn để mời và chuông để thỉnh tổ tiên. Khi cúng thì phải chắp
tay đưa lên ngang trán khấn.

Khấn là lời trình với tổ tiên về ngày cúng liên quan đến tên người quá
cố, ngày tháng năm ta và tây, tên địa phương mình ở, tên mình và tên
những người trong gia đình, lý do cúng và lời cầu nguyên, v.v.. Riêng
tên người quá cố ta phải khấn rõ nhỏ. Sau khi khấn rồi, tùy theo địa
vị của người cúng và người quá cố mà vái hay lạy. Nếu bố cúng con thì
chỉ vái bốn vái mà thôi. Nếu con cháu cúng tổ tiên thì phải lạy bốn
lạy. Chúng ta cần hiểu cho rõ về ý nghĩa của Cúng, Khấn, Vái, và Lạy.

* Cúng

Khi có giỗ Tết, gia chủ bày hoa (bông) quả, nước, rượu, cỗ bàn, chén
bát, đũa, muỗng (thìa) lên bàn thờ rồi thắp nhang (hương), thắp đèn,
đốt nến (đèn cầy), khấn, vái, hay lạy để tỏ lòng hiếu kính, biết ơn,
và cầu phước lành. Đây là nghĩa rộng của cúng. Trong nghĩa bình
thường, cúng là thắp nhang (hương), khấn, lạy, và vái.

* Khấn

Khấn là lời cầu khẩn lầm rầm trong miệng khi cúng, tức là lời nói nhỏ
liên quan đến các chi tiết về ngày tháng năm, nơi chốn, mục đích buổi
cúng lễ, cúng ai, tên những người trong gia đình, lời cầu xin, và lời
hứa.

Sau khi khấn, người ta thường vái vì vái được coi là lời chào kính
cẩn. Người ta thường nói khấn vái là vậy. Trong truyện Kiều, Nguyễn Du
dùng từ khấn vái trong câu "Lầm rầm khấn vái nhỏ to,/ Sụp ngồi đặt cỏ
trước mồ bước ra." (câu 95-96).

* Vái

Vái thường được áp dụng ở thế đứng, nhất là trong dịp lễ ở ngoài trời.
Vái thay thế cho lạy ở trong trường hợp này. Vái là chắp hai bàn tay
lại để trước ngực rồi đưa lên ngang đầu, hơi cúi đầu và khom lưng
xuống rồi sau đó ngẩng lên, đưa hai bàn tay xuống lên theo nhịp lúc
cúi xuống khi ngẩng lên. Tùy theo từng trường hợp, người ta vái 2,3,4,
hay 5 vái (xem phần sau).

* Lạy

Lạy là hành động bày tỏ lòng tôn kính chân thành với tất cả tâm hồn và
thể xác đối với người trên hay người quá cố vào bậc trên của mình. Có
hai thế lạy: thế lạy của đàn ông và thế lạy của đàn bà. Có bốn trường
hợp lạy: 2 lạy, 3 lạy, 4 lạy, và 5 lạy. Mỗi trường hợp đều mang ý
nghĩa khác nhau.

Thế lạy của đàn ông

Lạy là hành động bày tỏ lòng tôn kính chân thành với tất cả tâm hồn và
thể xác đối với người trên hay người quá cố vào bậc trên của mình

Thế lạy của đàn ông là cách đứng thẳng theo thế nghiêm, chắp hai tay
trước ngực và dơ cao lên ngang trán, cúi mình xuống, đưa hai bàn tay
đang chắp xuống gần tới mặt chiếu hay mặt đất thì xòe hai bàn tay ra
đặt nằm úp xuống, đồng thời quì gối bên trái rồi gối bên phải xuống
đất, và cúi rạp đầu xuống gần hai bàn tay theo thế phủ phục. Sau đó
cất người lên bằng cách đưa hai bàn tay chắp lại để lên đầu gối trái
lúc bấy giờ đã co lên và đưa về phía trước ngang với đầu gối chân phải
đang quì để lấy đà đứng dậy, chân phải đang quì cũng theo đà đứng lên
để cùng với chân trái đứng ở thế nghiêm như lúc đầu. Cứ theo thế đó mà
lạy tiếp cho đủ số lạy (xem phần "Ý nghĩa của Lạy" dưới đây). Khi lạy
xong thì vái ba vái rồi lui ra.

Có thể quì bằng chân phải hay chân trái trước cũng được, tùy theo
thuận chân nào thì quì chân ấy trước. Có điều cần nhớ là khi quì chân
nào xuống trước thì khi chuẩn bị cho thế đứng dậy phải đưa chân đó về
phía trước nửa bước và tì hai bàn tay đã chắp lại lên đầu gối chân đó
để lấy thế đứng lên. Thế lạy theo kiểu này rất khoa học và vững vàng.
Sở dĩ phải quì chân trái xuống trước vì thường chân phải vững hơn nên
dùng để giữ thế thăng bằng cho khỏi ngã. Khi chuẩn bị đứng lên cũng
vậy. Sở dĩ chân trái co lên đưa về phía trước được vững vàng là nhờ
chân phải có thế vững hơn để làm chuẩn.

Thế lạy phủ phục của mấy nhà sư rất khó. Các Thầy phất tay áo cà sa,
đưa hai tay chống xuống ngay mặt đất, đồng thời quì hai đầu gối xuống
luôn. Khi đứng dậy các Thầy đẩy hai bàn tay lấy thế đứng hẳn lên mà
không cần phải để tay tỳ lên đầu gối. Sở dĩ được như thế là nhờ các
Thầy đã tập luyện hàng ngày mỗi khi cúng Phật. Nếu thỉnh thoảng mới đi
lễ chùa, mọi người phải cẩn thận vì không lạy quen mà lại bắt chước
thế lạy của mấy Thầy thì rất có thể mất thăng bằng.

Thế lạy của đàn bà

Thế lạy của các bà là cách ngồi trệt xuống đất để hai cẳng chân vắt
chéo về phía trái, bàn chân phải ngửa lên để ở phía dưới đùi chân
trái. Nếu mặc áo dài thì kéo tà áo trước trải ngay ngắn về phía trước
và kéo vạt áo sau về phía sau để che mông cho đẹp mắt. Sau đó, chắp
hai bàn tay lại để ở trước ngực rồi đưa cao lên ngang với tầm trán,
giữ tay ở thế chắp đó mà cúi đầu xuống. Khi đầu gần chạm mặt đất thì
đưa hai bàn tay đang chắp đặt nằm úp xuống đất và để đầu lên hai bàn
tay. Giữ ở thế đó độ một hai giây, rồi dùng hai bàn tay đẩy để lấy thế
ngồi thẳng lên đồng thời chắp hai bàn tay lại đưa lên ngang trán như
lần đầu. Cứ theo thế đó mà lạy tiếp cho đủ số lạy cần thiết (xem phần
"Ý nghĩa của Lạy" dưới đây). Lạy xong thì đứng lên và vái ba vái rồi
lui ra là hoàn tất thế lạy.

Cũng có một số bà lại áp dụng thế lạy theo cách quì hai đầu gối xuống
chiếu, để mông lên hai gót chân, hai tay chắp lại đưa cao lên đầu rồi
giữ hai tay ở thế chắp đó mà cúi mình xuống, khi đầu gần chạm mặt
chiếu thì xòe hai bàn tay ra úp xuống chiếu rồi để đầu lên hai bàn
tay. Cứ tiếp tục lạy theo cách đã trình bày trên. Thế lạy này có thể
làm đau ngón chân và đầu gối mà còn không mấy đẹp mắt.

Thế lạy của đàn ông có vẻ hùng dũng, tượng trưng cho dương. Thế lạy
của các bà có tính cách uyển chuyển tha thướt, tượng trưng cho âm. Thế
lạy của đàn ông có điều bất tiện là khi mặc âu phục thì rất khó lạy.
Hiện nay chỉ có mấy vị cao niên còn áp dụng thế lạy của đàn ông, nhất
là trong dịp lễ Quốc Tổ. Còn phần đông, người ta có thói quen chỉ đứng
vái mà thôi.

Thế lạy của đàn ông và đàn bà là truyền thống rất có ý nghĩa của người
Việt ta. Nó vừa thành khẩn vừa trang nghiêm trong lúc cúng tổ tiên.
Nếu muốn giữ phong tục tốt đẹp này, các bạn nam nữ thanh niên phải có
lòng tự nguyện. Muốn áp dụng thế lạy, nhất là thế lạy của đàn ông, ta
phải tập dượt lâu mới nhuần nhuyễn được. Nếu đã muốn thì mọi việc sẽ
thành.

* Ý nghĩa của Lạy và Vái

Số lần lạy và vái đều mang một ý nghĩa rất đặc biệt. Sau đây chúng tôi
xin trình bày về ý nghĩa của vái và lạy. Đây là phong tục đặc biệt của
Việt Nam ta mà người Tàu không có tục lệ này. Khi cúng, người Tàu chỉ
lạy 3 lạy hay vái 3 vái mà thôi.

* Ý nghĩa của 2 Lạy và 2 Vái

Lời khấn vái là lời nói chuyện với người quá cố, do đó lời khấn là tấm
lòng của người còn sống có thể khấn sao cũng được

Hai lạy dùng để áp dụng cho người sống như trong trường hợp cô dâu chú
rể lạy cha mẹ. Khi đi phúng điếu, nếu là vai dưới của người quá cố như
em, con cháu, và những người vào hàng con em, v.v., ta nên lạy 2 lạy.

Nếu vái sau khi đã lạy, người ta thường vái ba vái. Ý nghĩa của ba vái
này, như đã nói ở trên là lời chào kính cẩn, chứ không có ý nghĩa nào
khác. Nhưng trong trường hợp người quá cố còn để trong quan tài tại
nhà quàn, những người đến phúng điếu, nếu là vai trên của người quá cố
như các bậc cao niên, hay những người vào hàng cha, anh, chị, chú,
bác, cô, dì, v. v., của người quá cố, thì chỉ đứng để vái hai vái mà
thôi. Khi quan tài đã được hạ huyệt, tức là sau khi chôn rồi, người ta
vái người quá cố 4 vái.

Theo nguyên lý âm dương, khi chưa chôn, người quá cố được coi như còn
sống nên ta lạy 2 lạy. Hai lạy này tượng trưng cho âm dương nhị khí
hòa hợp trên dương thế, tức là sự sống. Sau khi người quá cố được chôn
rồi, phải lạy 4 lạy.

* Ý nghĩa của 3 Lạy và 3 Vái

Khi đi lễ Phật, ta lạy 3 lạy. Ba lạy tượng trưng cho Phật, Pháp, và
Tăng. Phật ở đây là giác, tức là giác ngộ, sáng suốt, thông hiểu mọi
lẽ. Pháp là chánh, tức là điều chánh đáng, trái với tà ngụy. Tăng là
tịnh, tức là trong sạch, thanh tịnh, không bợn nhơ. Đây là nói về
nguyên tắc phải theo. Tuy nhiên, còn tùy mỗi chùa, mỗi nơi, và thói
quen, người ta lễ Phật có khi 4 hay 5 lạy.

Trong trường hợp cúng Phật, khi ta mặc đồ Âu phục, nếu cảm thấy khó
khăn trong khi lạy, ta đứng nghiêm và vái ba vái trước bàn thờ Phật.

* Ý nghĩa của 4 Lạy và 4 Vái

Bốn lạy để cúng người quá cố như ông bà, cha mẹ, và thánh thần. Bốn
lạy tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, bốn phương (đông: thuộc dương,
tây: thuộc âm, nam: thuộc dương, và bắc: thuộc âm), và tứ-tượng (Thái
Dương,Thiếu Dương, Thái Âm, Thiếu Âm). Nói chung, bốn lạy bao gồm cả
cõi âm lẫn cõi dương mà hồn ở trên trời và phách hay vía ở dưới đất
nương vào đó để làm chỗ trú ngụ.

Bốn vái dùng để cúng người quá cố như ông bà, cha mẹ, và thánh thần,
khi không thể áp dụng thế lạy.

* Ý nghĩa của 5 Lạy và 5 Vái

Ngày xưa người ta lạy vua 5 lạy. Năm lạy tượng trưng cho ngũ hành
(kim, mộc, thuỷ, hỏa, và thổ), vua tượng trưng cho trung cung tức là
hành thổ màu vàng đứng ở giữa. Còn có ý kiến cho rằng 5 lạy tượng
trưng cho bốn phương (đông, tây, nam, bắc) và trung ương, nơi nhà vua
ngự. Ngày nay, trong lễ giỗ Tổ Hùng Vương, quí vị trong ban tế lễ
thường lạy 5 lạy vì Tổ Hùng Vương là vị vua khai sáng giống nòi Việt.

Năm vái dùng để cúng Tổ khi không thể áp dụng thế lạy vì quá đông
người và không có đủ thì giờ để mỗi người lạy 5 lạy.

Phong tục có được là do thói quen mà mọi người đã chấp nhận, nhiều khi
không giải thích được lý do tại sao lại như thế mà chỉ biết làm theo
cho đúng thôi. Trong mỗi gia đình Việt Nam, dù theo đạo nào cũng vậy,
chúng ta, con dân nước Việt, hãy cố gắng thiết lập một bàn thờ gia
tiên. Có như thế, con cháu ta mới có cơ hội học hỏi cách thiết lập bàn
thờ gia tiên, và hiểu được ý nghĩa của việc thờ cúng ra sao.

Thờ cúng là cách biểu thị lòng nhớ ơn tổ tiên cũng như lòng thương và
hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ. Đây là một truyền thống văn hóa tốt
đẹp của người Việt mà chúng ta cần phải duy trì.

Lời khấn vái là lời nói chuyện với người quá cố, do đó lời khấn là tấm
lòng của người còn sống có thể khấn sao cũng được. Tuy nhiên người xưa
cũng đã đặt ra lễ khấn và lời khấn.


Lễ khấn gồm các thủ tục như sau:

1. Sau khi mâm cỗ đã đặt xong thì gia trưởng ăn mặc chỉnh tề (ngày xưa
thì khăn đóng áo dài) đi ra mở cửa chính. Ở xứ lạnh thì cũng phải ráng
hé cửa chứ không đóng được cửa kín mít.


2. Sau đó phải khấn xin Thành Hoàng Thổ địa để họ không làm khó dễ
Linh về hưởng lễ giỗ.


3. Và sau đây là một đoạn khấn theo lối xưa:

Duy .....quốc.....Tỉnh/Thị xa.... trang/gia tại... (số nhà). Việt lịch
thứ 488..., thử nhật ... (ngày âm lịch) húy nhật gia phụ/mẫu/Tằng tổ
v.v. là Hiển khảo/Tỷ.. (tên) (cho đàn bà thì là hiển tỷ; với ông nội
ngoại thì thêm chữ tổ - hiển tổ khảo/tỷ), Hiếu tử/nữ/tôn v.v là (Tên)
tâm thành kính cáo thành hoàng và thổ thần bản địa, tiền chủ tiếp dẫn
gia phụ mẫu/cô di v.v. (Người được giỗ hôm nay) đồng cung thỉnh Cao
tằng tổ khảo, cao tằng tổ tỷ, liệt vị tổ tiên, hiển tổ khảo, hiển tổ
tỷ, cô di tỷ muội, nội ngoại đồng giai lâm, tọa ngự linh sàn chứng
giám. Cẩn cáo.


(Theo e-cadao)