11 April 2011

Ba ơi, họ của vua Hùng đầu tiên của nước mình là họ gì?

bài của Lê Minh Hưng


Vua Hùng Vương họ gì?


 Nhân ngày giỗ Tổ Hùng Vương (mồng 10 tháng 3), trong lúc ngồi nhâm nhi ly cà phê ở C’est moi, một người bạn tôi kể rằng: “Hôm qua con gái mình mới đi học về, đột nhiên hỏi: “Ba ơi, họ của vua Hùng đầu tiên của nước mình là họ gì?” – làm tôi ngớ người ra, không biết trả lời thế nào…”. Hắn đem chuyện kể lại, làm tôi cũng ngạc nhiên vì … mình cũng không biết trả lời ra sao? Không lẽ là họ… Hùng (vì là Hùng Vương)? Sẵn đang có Wifi nên tôi lên mạng tìm hiểu thử. Lướt qua vài trang thấy có một số câu trả lời khá ngộ nghĩnh:


- Họ Lạc, vì là cha của Lạc Long Quân.
- Họ Mỵ, vì có con gái tên là Mỵ Nương.


… mới nghe qua buồn cười, nhưng thấy cũng có lý! Tuy nhiên, để tìm câu trả lời tương đối chuẩn xác về lịch sử hơn, tôi bèn vào trang Wiki để truy ra nguồn gốc về “Hồng Bàng”, thì thấy như sau:


Niên đại Hồng Bàng:


“Thời kỳ Hồng Bàng theo truyền thuyết và dã sử cho rằng bắt đầu từ năm 2879 TCN, là niên đại vua Kinh Dương Vương, với quốc hiệu Xích Quỷ. Địa bàn của quốc gia dưới thời vua Kinh Dương rộng lớn, phía bắc tới sông Dương Tử (cả vùng hồ Động Đình), phía nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía đông là Đông Hải (một phần của Thái Bình Dương), phía tây là Ba Thục (Tứ Xuyên, Trung Quốc ngày nay). Về sau người Việt chỉ thấy có ở miền Bắc Việt Nam ngày nay, có thể một phần do sự lấn áp của các tộc người Hoa Hạ từ phương Bắc.


Theo Đại Việt sử ký toàn thư: Vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh (nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc), gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Bắc), phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Nam), xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỉ.


Kinh Dương Vương làm vua Xích Quỉ vào năm Nhâm Tuất 2897 TCN, lấy con gái Động Đình Hồ quân (còn có tên là Thần Long) là Long nữ đẻ ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai (con của Đế Nghi), tên là Âu Cơ, đẻ một lần trăm người con trai. Một hôm, Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng: “Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó”. Bèn từ biệt nhau, chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về ở miền biển (có bản chép là về Nam Hải), phong cho con trưởng làm Hùng Vương, nối ngôi vua.


Theo thuyết này, người ta cho rằng từ Lạc Long Quân về sau, nước Xích Quỉ được chia ra thành những nước nhỏ, gọi là Bách Việt, dù điều này không có ghi chép lịch sử xác nhận.


Đầu thời kỳ đồ đồng, người Việt gồm khoảng 15 nhóm Lạc Việt khác nhau sống trên vùng núi miền Bắc và miền châu thổ sông Hồng và hơn 12 nhóm Âu Việt sống ở vùng Đông Bắc. Để tiện việc trao đổi buôn bán, phòng chống lụt lội, chống lại kẻ thù… những bộ lạc Lạc Việt dần được gom lại thành một nước lấy tên Văn Lang và người đứng đầu tự xưng là Hùng Vương.


Có ít nhất 18 đời Hùng Vương cai trị trong thời đại Hồng Bàng, cho đến năm 258 TCN. Các thông tin về các đời vua Hùng dựa nhiều trên các truyền thuyết. Cũng có nhiều bằng chứng khảo cổ học như trống đồng Đông Sơn được tìm thấy ở miền bắc Việt Nam có cùng niên đại với thời kỳ Hồng Bàng, thể hiện một nền văn hóa đồ đồng rất phát triển (văn hoá Đông Sơn).


18 đời vua Hùng:


01. Hùng Vương (tức Kinh Dương Vương – Lộc Tục)
02. Hùng Hiền (tức Lạc Long Quân – Sùng Lãm)
03. Hùng Lân
04. Hùng Việp
05. Hùng Hy (Hi)
06. Hùng Huy
07. Hùng Chiêu
08. Hùng Vỹ (Vĩ)
09. Hùng Định
10. Hùng Hy (Hi)
11. Hùng Trinh
12. Hùng Võ
13. Hùng Việt
14. Hùng Anh
15. Hùng Triều
16. Hùng Tạo
17. Hùng Nghị
18. Hùng Duệ


…”


Như vậy, theo tôi vua Đế Minh (không rõ tên họ), sinh ra Lộc Tục (làm vua hiệu là Kinh Dương Vương), Lộc Tục sinh ra Sùng Lãm (làm vua hiệu là Lạc Long Quân). Tôi mới suy luận là: tên họ và hiệu khi làm vua là không giống nhau (ví dụ: Nguyễn Huệ (họ Nguyễn, có anh là Nguyễn Nhạc), làm vua lấy hiệu là Quang Trung. Nên họ của vua Quang Trung là họ Nguyễn).


Do đó, vua Hùng Vương đầu tiên của nước ta – hiệu khi làm vua là Kinh Dương Vương – có tên họ Lộc Tục, thì họ sẽ là: Lộc. Tuy nhiên, (tôi lại suy luận tiếp, có thể không chính xác) sau khi được cha chia ra 2 cõi riêng biệt trị vì Bắc-Nam. Kinh Dương Vương muốn tạo nên một triều đại mới của mình, nên mới đặt thêm danh xưng vương mới là “Hùng Vương”, bắt đầu bằng chữ “Hùng”, (giống như trong cách đặt tên của vua Minh Mạng – bài Đế Hệ Thi – sau này vậy: Miên, Hồng, Ưng, Bửu, Vĩnh – Bảo, Quý, Định, Long Trường – Hiền, Năng, Kham, Kế, Thuật – Thế, Thoại, Quốc, Gia, Xương. Bài thơ có 4 câu, mỗi câu 5 chữ, mỗi chữ là tên đầu (chứ không phải họ) cho một ông vua kế vị.) và sau Hùng Vương thì có: Hùng Hiền, Hùng Lân, Hùng Việp, v.v… (các đời vua Hùng tiếp theo). Vậy “Hùng” là tên đầu (chứ không phải họ) của 18 đời vua Hùng Vương.


Tóm lại, theo những suy luận “vỉa hè” của tôi, họ của Hùng Vương chính là: Lộc.

Câu trả lời còn lại xin nhường cho các nhà nghiên cứu sử học với những dẫn chứng chính xác mang tính học thuật hơn… Và dù Hùng Vương có là họ gì đi chăng nữa, chúng ta ngày nay vẫn luôn luôn hãnh diện là con cháu các vua Hùng của nước Việt 4000 năm.

Nhàn đàm chút chuyện vui nhân ngày về nguồn, nếu có gì sai sót xin các bậc tiền bối hướng dẫn thêm. Xin được kết thúc bằng bài thơ của Vương Sinh:



Vua Hùng Dựng Nước

Vua Hùng dựng nước Văn Lang
Năm ngàn năm trước, huy hoàng trời Đông

Giang san một dải mênh mông
Bắc phương Hán tộc, Nam phương Lạc Hồng
Động Đình là ải biên cương
Phía Tây Ba Thục, tiếp dòng Trường Sơn!
Phía Nam giáp với Hồ Tôn
Nhìn ra Nam Hải, sóng dâng vơi đầy.

Bộ tộc Lạc Việt anh tài
Mình xâm rồng rắn khiếp loài kình ngư
Phong Châu là chốn kinh đô
Lạc Hầu, Lạc Tướng giúp vua trị vì
Các quan Bồ Chính, trưởng chi
Coi sóc làng xóm, vỗ về Lạc dân

Thuở còn trời đất hỗn mang
Nhà sàn ta ở, sống gần văn minh!
Cha truyền con nối yên bình
Chính trị “phụ đạo”, dân tình thuần lương.

Hoàng Tử tên gọi Quan Lang
Mị Nương: công chúa, cành vàng ngày xưa.
Hồng Bàng là họ nhà vua
Hăm sáu thế kỷ (2622 năm), trải hai mươi đời.
Thuần phong mỹ tục sáng ngời
Tổ Tiên: thờ phụng, Đạo Trời: niềm tin.
Đời đời tiết liệt trung trinh
Tinh thần bất khuất, đấu tranh chẳng sờn!

Ông cha dựng nước oai hùng
Cháu con hãnh diện, dốc lòng biết ơn
Ai ơi! Uống nước nhớ nguồn
Ăn quả nhớ kẻ vun trồng nên cây!


Tp. HCM, 11.04.2011

KTS. Lê Minh Hưng